Theo đó, Kế hoạch đã đặt ra mục tiêu tổ chức phòng bệnh, khống chế và kiểm soát có hiệu quả một số dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản nuôi và xây dựng thành công các vùng, cơ sở, chuỗi sản xuất thủy sản an toàn dịch bệnh (ATDB) để phục vụ tiêu dùng nước nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
Cụ thể, chủ động phòng, khống chế các bệnh nguy hiểm ở tôm nuôi nước lợ, bảo đảm diện tích bị bệnh thấp hơn 10% tổng diện tích nuôi; các bệnh ở cá tra nuôi đảm bảo diện tích bị bệnh thấp hơn 8% tổng diện tích nuôi.
Ngoài ra, chủ động phòng bệnh, khống chế một số bệnh nguy hiểm ở tôm hùm, bảo đảm số tôm hùm nuôi bị bệnh thấp hơn 15% tổng diện tích nuôi; ở ngao/nghêu, tu hài, hàu, bảo đảm diện tích bị bệnh thấp hơn 5% tổng diện tích nuôi. Thực hiện giám sát phát hiện và khống chế kịp thời một số bệnh nguy hiểm trên các đối tượng thủy sản nuôi khác, không để mầm bệnh lây lan rộng. Ngăn chặn có hiệu quả một số tác nhận gây bệnh nguy hiểm, nguy cơ xâm nhiễm vào Việt Nam các bệnh mới nổi.
Kế hoạch cũng đặt ra mục tiêu xây dựng thêm ít nhất 30 cơ sở, chuỗi sản xuất thủy sản ATDB đối với một số bệnh nguy hiểm theo quy định của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) và quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT để phục vụ tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
Để thực hiện có hiệu quả trong công tác phòng bệnh và khống chế một số dịch bệnh nguy hiểm đang lưu hành, Kế hoạch đề ra 08 nhóm nội dung, giải pháp cần phải thực hiện như: Phòng bệnh và khống chế có hiệu quả một số dịch bệnh nguy hiểm đang lưu hành; Kiểm soát, ngăn chặn nguy cơ xâm nhiễm một số dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản từ nước ngoài vào Việt Nam; Xây dựng một số vùng, cơ sở, chuỗi sản xuất thủy sản ATDB để phục vụ tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu; Tăng cường năng lực chẩn đoán, xét nghiệm bệnh thủy sản; Tăng cường năng lực quan trắc, cảnh báo môi trường trong nuôi trồng thủy sản; Nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ thông tin; Thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến thức; Hợp tác quốc tế về công tác thú y thủy sản.
Trong công tác khống chế các dịch bệnh nguy hiểm đang lưu hành cần tuân thủ các quy định về điều kiện cơ sở nuôi, xử lý nước thải, chất thải theo quy định, mùa vụ thả giống, chất lượng con giống được kiểm dịch theo quy định; áp dụng các quy trình kỹ thuật nuôi, quản lý chăm sóc ao nuôi (VietGAP, GlobalGAP…) ; áp dụng các biện pháp hỗ trợ nâng cao sức đề kháng cho thủy sản nhằm giảm thiểu nguy cơ bắc bệnh.
Áp dụng các biện pháp phòng bệnh, chống dịch, xử lý ổ dịch theo hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành thú y xem xét, sử dụng vacxin để chủ động phòng bệnh cho động vật thủy sản để giảm thiểu sử dụng kháng sinh, ngăn ngừa kháng thuốc trong nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, triển khai giám sát bị động, giám sát chủ động tại các vùng nuôi và cơ sở nuôi trồng thủy sản; kiểm dịch, kiểm soát động vật, sản phẩm động vật thủy sản.
Kế hoạch cũng đề ra các giải pháp cho việc kiểm soát, ngăn chặn, nguy cơ xêm nhiễm một số dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các biện pháp như kiểm dịch nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật thủy sản, tổ chức triển khai giám sát chủ động, giám sát bị động (lấy mẫu, xét nghiệm, kiểm soát, ngăn chặn, xử lý nghiêm việc nhập lậu qua biên giới…).
Cũng theo Kế hoạch, sẽ tăng cường năng lực chẩn đoán, xét nghiệm bệnh thủy sản. Tiến hành à soát, sửa đổi, bổ sung quy định về vùng, cơ sở ATDB; trong đó có quy định về lộ trình các cơ sở sản xuất, cung ứng động vật thủy sản sử dụng làm giống phải đạt ATDB. Tổ chức phổ biến, tập huấn, hướng dẫn địa phương, doanh nghiệp các quy định về vùng, cơ sở ATDB của OIE và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tổ chức giám sát chủ động, xây dựng cơ sở ATDB với các bệnh nguy hiểm, bệnh mới nổi trên tôm nuôi, cá tra nuôi được liệt kê tại Phụ lục ban hành kèm theo Kế hoạch này và một số bệnh theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
|
Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phòng thử nghiệm, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác chẩn đoán và giám sát chủ động các bệnh nguy hiểm trên động vật thủy sản; đào tạo, tập huấn chuyên môn về dịch tễ, kỹ thuật xét nghiệm, bảo đảm đáp ứng tiêu chuẩn của Việt Nam và yêu cầu của quốc tế. Mặt khác, chú trọng tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi trồng thủy sản theo quy định, đặc biệt tại các vùng nuôi tập trung đối tượng nuôi chủ lực quốc gia, đối tượng nuôi có giá trị kinh tế,... để cảnh báo, chủ động ứng phó với các điều kiện môi trường bất lợi nhằm giảm thiểu thiệt hại trong nuôi trồng thủy sản.
Đẩy mạnh công tác ghiên cứu về đặc điểm dịch tễ một số bệnh nguy hiểm, bệnh mới nổi trên động vật thủy sản và đề xuất các biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Nghiên cứu, sản xuất vắc xin, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thủy sản, chế phẩm dùng trong chẩn đoán, xét nghiệm bệnh thủy sản. Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong công tác phòng, chống dịch bệnh thủy sản, bao gồm: báo cáo, chia sẻ, phân tích số liệu dịch bệnh, dự báo, cảnh báo dịch bệnh, lập bản đồ dịch tễ
Theo Kế hoạch, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của Kế hoạch quốc gia.
Chính phủ cũng giao Bộ Thông tin – Truyền thông phối hợp với Bộ Nông nghiệp & PTNT và các bộ, ngành liên quan xây dựng và triển khai kế hoạch tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản giai đoạn 2021- 2030.
Các Bộ, ngành liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, cân đối và bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm để thực hiện Kế hoạch quốc gia; hằng năm bố trí kinh phí và chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan để tổ chức thực hiện các nội dung được phân công trong bản Kế hoạch quốc gia; hằng năm tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các địa phương, căn cứ vào thực tế nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, hằng năm giao cơ quan quản lý chuyên ngành thú y cấp tỉnh xây dựng, trình cấp có thẩm quyền của địa phương phê duyệt, bố trí kinh phí và tổ chức thực hiện kế hoạch giám sát chủ động lưu hành tác nhân gây bệnh thủy sản tại các vùng nuôi thủy sản trọng điểm, vùng nuôi thủy sản công nghệ cao, cơ sở sản xuất giống thủy sản, vùng đệm của cơ sở ATDB,... của địa phương để cảnh báo và triển khai các hoạt động phòng chống dịch cho phù hợp và hiệu quả.
Căn cứ nhu cầu và nguồn lực của địa phương, yêu cầu của doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản, tổ chức xây dựng vùng, cơ sở ATDB, vùng đệm cơ sở ATDB theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và khuyến cáo của OIE.